Bệnh Đạo ôn hại lúa và biện pháp phòng, trừ

Bệnh đạo ôn là một trong những bệnh gây nguy hiểm nhất trên cây lúa. Khi dịch bệnh đạo ôn xảy ra trên diện rộng thì sự thiệt hại đến năng xuất và sản lượng sẽ thấy rất rõ nét và có ý nghĩa quan trọng đến kinh tế. Tác nhân gây bệnh có thể tấn công mọi giai đoạn của cây lúa; bắt đầu từ giai đoạn mạ hoặc sau khi gieo cấy cho đến trước trỗ thì gọi là bệnh đạo ôn lá (hay gọi là bệnh cháy lá). Bệnh có thể gây hại trên cổ lá nên gọi là thối cổ lá, hoặc gây hại trên cổ bông nên gọi là bệnh đạo ôn cổ bông (hay gọi là thối cổ bông) làm lép hạt; đôi khi bệnh có thể gây lem vỏ hạt lúa. Bệnh nặng sẽ làm mất trắng năng suất nếu bà con nông dân không phát hiện sớm và phòng trị kịp thời.

Một thực trạng hiện nay việc sử dụng thuốc BVTV của nhiều nông dân còn tùy tiện chưa tuân thủ nguyên tắc 4 đúng từ lựa chọn thuốc đặc hiệu, kỷ thuật pha chế(như lượng nước, thuốc cần pha), thời gian phun, kỹ thuật phun,…dẫn đến  phải phun nhiều lần, gây ô nhiễm môi trường nhưng hiệu quả phòng trừ không cao. Để chủ động phòng trừ bệnh có hiệu quả, ngành chức năng giới thiệu về bệnh đạo ôn và các kinh nghiệm phòng trừ bệnh.

1. TRIỆU CHỨNG

Bệnh hại ở các bộ phận trên cây nhưng rõ nhất trên lá, cổ bông, đốt thân.

- Trên lá lúa: vết bệnh ban đầu là những chấm nhỏ màu xanh xám nhạt(hay gọi xanh dọt dầu loang). Về sau vết bệnh lớn dần có hình thoi, rộng ở phần giữa, nhọn ở 2 đầu, ở giữa vết bệnh màu xám tro, xung quanh nâu đậm, phần tiếp giáp với mô khỏe có màu nâu nhạt. Khi bệnh nặng các vết bệnh nối liền nhau làm cho lá bị cháy, nơi bị nhiễm nặng có thể bị cháy trụi hoàn toàn, bộ rễ bị thối và lúa không hồi phục

- Trên đốt thân: vết bệnh màu nâu bao quanh đốt thân làm đốt khô, teo lại. Các đốt thân gần gốc bị mục ra làm cho gốc bị gãy đổ.

- Cổ bông, cổ gié: vết bệnh ban đầu là một chấm nhỏ màu đen đoạn cổ giáp tai lá về sau lớn dần làm cổ bông héo, bông lúa trắng hoặc lép lửng.

- Trên hạt: Vết bệnh không định hình, có màu nâu xám. Nấm đen ký sinh ở vỏ trấu và có thể ở bên trong hạt. Hạt giống bị bệnh là nguồn truyền bệnh sang vụ khác.

2. NGUYÊN NHÂN

Bệnh do nấm Pyricularin gây ra. Nấm tồn tại trên tàn dư cây trồng, lúa chét, cỏ dại. Bào tử thường phát sinh vào ban đêm. Tính gây bệnh thay đổi tùy theo giống và vùng địa lý. Trong điều kiện ẩm độ cao số bào tử mọc ra rất nhiều.

 Quá trình gây hại: khi gặp điều kiện thuận lợi về nhiệt độ, ẩm độ nấm sẽ xâm nhập vào cây, nấm tiết ra một số độc tố như axit - picolinic và chất Pyricularin có tác dụng kìm hãm hô hấp và phân hủy các enzyme chứa kim loại của cây, kìm hãm sự sinh trưởng của cây lúa. Nấm đạo ôn tồn tại ở dạng sợi nấm, bào tử trong rơm rạ và hạt giống bị bệnh. Ngoài ra nấm còn tồn tại trên ký chủ phụ mọc quanh ruộng như các loài cỏ lồng vực, đuôi phụng, cỏ chỉ, lúa ma, lúa mọc lại gốc rạ-lúa chét…sinh trưởng phát triển quanh năm. Trong điều kiện khô ráo bào tử có thể sống hơn một năm, sợi nấm sống gần 3 năm.

3. ĐIỀU KIỆN PHÁT SINH VÀ PHÁT TRIỂN

Phạm vi nhiệt độ hình thành bào tử từ 10 – 30oC, nhưng thích hợp là từ 20 - 30 oC và độ ẩm trên 80%. Trong vụ Đông Xuân, biên độ nhiệt giữa ngày và đêm cao sẽ dễ phát sinh thành dịch, trời âm u, có mưa phùn, sương mù liên tục trong nhiều ngày là điều kiện rất thuận lợi cho bệnh đạo ôn lây lan, phát triển và gây hại nặng. Trong điều kiện khô hạn, ẩm độ đất thấp hoặc ở điều kiện ngập úng kéo dài cây lúa dễ bị nhiễm bệnh. Những chân ruộng nhiều mùn, trũng, khó thoát nước; những vùng đất mới vỡ hoang, đất nhẹ giữ nước kém, khô hạn và những chân ruộng có lớp sét nông rất phù hợp cho nấm bệnh phát triển gây hại.

Phân bón đặc biệt quan trọng với bệnh đạo ôn, ruộng bón thừa đạm thường bị bệnh nặng hơn. Sử dụng đạm Amonium sunfat (SA) quá nhiều, quá muộn hoặc bón vào lúc nhiệt độ không khí thấp và cây còn non đều làm tăng tỉ lệ bệnh. Phân lân ảnh hưởng ít đến mức độ nhiễm bệnh của cây. Tuy nhiên nếu bón thêm phân lân trên vùng đất phèn sẽ hạn chế bệnh đạo ôn lá rất rõ ràng. Ruộng bón thiếu kali sẽ làm bệnh tăng nặng hơn. Ruộng bón cân đối đủ N-P-K thường bị bệnh nhẹ hơn.

Những giống nhiễm bệnh không những là điểm bệnh phát sinh ban đầu mà còn là điều kiện cho bệnh lây lan dễ dàng thành dịch trên đồng ruộng. Ruộng gieo cấy dày làm ẩm độ trong ruộng tăng cao nên bệnh gây hại nặng hơn. Thông thường các giống lúa cao sản ngắn ngày khi được đưa vào sản xuất đại trà thì đã được các nhà khoa học lai tạo, tuyển chọn để cây lúa có khả năng ít nhiều mang gen có thể kháng hay chống chịu lại bệnh đạo ôn. Trồng các giống lúa nhiễm bệnh khi gặp điều kiện thời tiết thuận lợi cho nầm bệnh, áp lực nguồn bệnh trong khu vực cao thì cây lúa dễ bị cháy trụi nhanh rồi chết. Ngược lại, nếu trồng giống lúa kháng bệnh kết hợp với việc áp dụng Chương trình quản lý dịch hại tổng hợp thì cây lúa sẽ đứng vững và tiếp tục cho năng suất. Khả năng kháng lại bệnh của giống lúa chỉ có thể tồn tại trong một thời gian nhất định do con nấm gây bệnh đạo ôn thường xuyên thay đổi “tính chất gây bệnh” để phù hợp với “con bệnh”. Do đó, bà con nên thay đổi giống mới sau một thời gian canh tác. Ngòai ra, “tính chất gây bệnh” của các con nấm cũng thay đổi theo khu vực; thường được các nhà khoa học gọi là “nòi hay dòng nấm địa phương”.

4. BIỆN PHÁP PHÒNG TRỪ

Bệnh đạo ôn là loại bệnh gây hại nghiêm trọng, dễ phát triển nhanh trên diện rộng. Vì vậy để phòng trừ hiệu quả phải điều tra, phát hiện theo dõi phân tích các điều kiện liên quan tới sự phát sinh của bệnh như thời tiết, giống…. Áp dụng biện pháp phòng trừ tổng hợp để phòng trừ bệnh đạo ôn sẽ mang lại hiệu quả cao, trong đó đặc biệt lưu ý:

- Dọn sạch tàn dư rơm rạ và cỏ dại mang mầm bệnh trên đồng ruộng; gieo cấy các giống kháng hoặc chống chịu với bệnh đạo ôn trong vùng thường xảy ra bệnh và mức gây hại cao; kiểm tra hạt giống và xử lý giống ở nhiệt độ thích hợp. Mật độ gieo, cấy vừa phải. Bón phân với tỉ lệ cân đối giữa phân chuồng và N:P:K, bón tập trung nặng đầu, nhẹ cuối; sao cho khi lúa trỗ bông có bộ lá đòng màu xanh hơi vàng là đạt yêu cầu. Khi bị bệnh đạo ôn không để ruộng khô hạn, không bón phân đạm, không phun các loại phân bón lá và thuốc kích thích sinh trưởng. Nếu ruộng bị đạo ôn lá  nặng sau khi phun thì 5 - 7 ngày còn vết trên lá non dạng cấp tính phải phun thuốc lại lần 2.

- Giữ mực nước đầy đủ thường xuyên trên mặt ruộng tùy theo nhu cầu nước theo từng giai đọan của cây lúa (3-5cm), tránh để ruộng khô nước khi bệnh đạo ôn xãy ra

- Cần thăm đồng thường xuyên, phát hiện kịp thời khi bệnh chớm xuất hiện.

- Đối với bệnh đạo ôn cổ lá, cổ bông, cần theo dõi chặt chẽ thời gian lúa vào trỗ. Ruộng đạo ôn lá lúa đã chữa trị khỏi thì ruộng đó ít nhiều bị bệnh đạo ôn cổ lá và cổ bông, do đó bước vào bắt đầu sắp trỗ( trổ vè)  đều phải phun thuốc. Nếu điều kiện thời tiết thuận lợi cho đạo ôn cổ bông phát triển gây hại cần phun phòng cho các ruộng gieo, cấy giống nhiễm trước khi lúa trỗ 5 - 7 ngày, nhất là khi trỗ gặp điều kiện nhiệt độ dưới 28°C, tiết trời râm mát, có mưa nhỏ hoặc mưa rào.

- Những ruộng lúa xanh tốt, thừa đạm khi trỗ 20-30%, gặp gió mùa Đông Bắc muộn (rét nàng Bân), thường hay bị bệnh đạo ôn cổ bông gây hại. Dùng các thuốc đặc hiệu để phun trừ bệnh như: Beam 75WP, Filia 525SC, Kabim 30WP, Trizole…...Kết hợp phun thuốc phòng khô vằn, thối thân thối bẹ giai đoạn đồng trổ; với liều lượng và nồng độ theo hướng dẫn trên chai thuốc.

 Chú ý tuân thủ nguyên tắc 4 đúng khi phun: Đúng thuốc; đúng lúc; đúng liều lượng; đúng cách;  Những ruộng bị đạo ôn lá nặng nên ngắt bỏ lá bệnh đem tiêu hủy trước khi phun và phun lại sau 5 ngày. Trong thời gian sau phun 4 giờ gặp mưa không phải phun lại.

Chí Cường

Tin cùng chuyên mục